https://jfst.vn/index.php/ntu/issue/feed Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang 2023-06-30T00:00:00+00:00 Open Journal Systems <p style="margin: 0cm; text-align: justify; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt;"><span class="noidung"><span style="color: black;">Tạp chí Khoa học - Công nghệ thủy sản ISSN: 1859 - 2252 (được Bộ Văn hóa Thông tin cấp giấy phép xuất bản ngày 10/4/2003 tại quyết định số 112/GP-BVHTT) là cơ quan ngôn luận về khoa học của Trường Đại học Nha Trang, xuất bản 4 số/năm với ngôn ngữ thể hiện bằng tiếng Việt và tiếng Anh, được phát hành rộng rãi và miễn phí. Tạp chí được phát hành trên toàn quốc: doanh nghiệp trong ngành thủy sản, kinh tế biển, các sở khoa học - công nghệ trên toàn quốc, các trường đại học, viện nghiên cứu trong khối nông - lâm - ngư…và một số Trường Đại học, Viện nghiên cứu nước ngoài.</span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: justify; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt;"><span class="noidung"><span style="color: black;">Tôn chỉ, mục đích của Tạp chí:</span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: start; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt; box-sizing: border-box; font-variant-ligatures: normal; font-variant-caps: normal; orphans: 2; widows: 2; -webkit-text-stroke-width: 0px; text-decoration-thickness: initial; text-decoration-style: initial; text-decoration-color: initial; word-spacing: 0px;"><span style="box-sizing: border-box;"><span class="noidung"><span style="color: black;">- Thông tin, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và phát triển thủy sản.</span></span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: start; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt; box-sizing: border-box; font-variant-ligatures: normal; font-variant-caps: normal; orphans: 2; widows: 2; -webkit-text-stroke-width: 0px; text-decoration-thickness: initial; text-decoration-style: initial; text-decoration-color: initial; word-spacing: 0px;"><span style="box-sizing: border-box;"><span class="noidung"><span style="color: black;">- Công bố, giới thiệu các công trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực thủy sản nhằm phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu, giảng dạy của nhà Trường;</span></span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: start; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt; box-sizing: border-box; font-variant-ligatures: normal; font-variant-caps: normal; orphans: 2; widows: 2; -webkit-text-stroke-width: 0px; text-decoration-thickness: initial; text-decoration-style: initial; text-decoration-color: initial; word-spacing: 0px;"><span style="box-sizing: border-box;"><span class="noidung"><span style="color: black;">- Thông tin các kết quả nghiên cứu khoa học về thủy sản ở trong và ngoài nước;</span></span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: justify; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt;"><span class="noidung"><span style="color: black;">Với mong muốn thực sự trở thành diễn đàn của những người hoạt động khoa học công nghệ trong lĩnh vực thuỷ sản, Ban biên tập Tạp chí rất mong muốn nhận được sự cộng tác, trao đổi học thuật của các tổ chức, cá nhân trên các lĩnh vực: kết quả nghiên cứu, thông tin nghề nghiệp, quảng bá giới thiệu hình ảnh, sản phẩm…trên Tạp chí.</span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: justify; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt;"><span class="noidung"><span style="color: black;">Các bài báo đăng trên Tạp chí đã được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước công nhận và tính điểm công trình khi xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh Giáo sư, Phó giáo sư hàng năm.</span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: justify; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt;"><span class="noidung"><span style="color: black;">Năm 2023 Tạp chí đã được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước công nhận và tính điểm công trình (theo Quyết định số 22/QĐ-HĐGSNN ngày 5/7/2023) ở các chuyên ngành:</span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: justify; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt;"><span class="noidung"><span style="color: black;">HĐGS ngành, liên ngành Chăn nuôi – Thú y – Thủy sản: 1,0 điểm</span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: justify; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt;"><span class="noidung"><span style="color: black;">HĐGS ngành, liên ngành Cơ khí – Động lực: 0,5 điểm</span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: justify; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt;"><span class="noidung"><span style="color: black;">HĐGS ngành, liên ngành Giao thông vận tải: 0,25 điểm</span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: justify; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt;"><span class="noidung"><span style="color: black;">HĐGS ngành, liên ngành Hóa học – Công nghệ thực phẩm: 0,5 điểm</span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: justify; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt;"><span class="noidung"><span style="color: black;">HĐGS ngành, liên ngành Nông nghiệp – Lâm nghiệp: 0,5 điểm</span></span></p> <p style="margin: 0cm; text-align: justify; text-indent: 1.0cm; line-height: 14.65pt;"><span class="noidung"><span style="color: black;">HĐGS ngành, liên ngành Sinh học: 0,5 điểm</span></span></p> https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/48 Đánh giá hiệu quả chính sách đóng mới, nâng cấp tàu thuyền khai thác xa bờ tỉnh Bình Thuận 2023-06-13T03:57:08+00:00 Văn Phương Tô phuongtv@ntu.edu.vn Viết Tiến Lưu phuongtv@ntu.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Nghiên cứu đánh giá hiệu quả trong triển khai sử dụng chính sách đóng mới, nâng cấp tàu thuyền khai thác xa bờ tỉnh Bình Thuận theo Nghị định 67. Từ tháng 01/2022 đến tháng 08/2022, 111 ngư dân được khảo sát là chủ tàu, thuyền trưởng tàu cá Bình Thuận được đóng mới, nâng cấp theo Nghị định 67. Kết quả cho thấy có 120 hồ sơ đóng tàu cá được hỗ trợ tín dụng vốn vay với tổng kinh phí triển khai là 1.360,6 tỷ đồng, chỉ còn 111 tàu vẫn đang hoạt động đánh bắt thủy sản. Có 45,9% ngư dân đánh giá từ “hiệu quả” đến “rất hiệu quả” của chính sách theo NĐ 67 hỗ trợ ngư dân về nguồn tín dụng cho vay đóng mới và nâng cấp tàu, giúp ngư dân có cơ hội trang bị mới máy tàu, trang thiết bị hàng hải và khai thác hiện đại. </em><em>Có 7,</em><em>2% ngư dân có cảm nhận chính sách từ “không hiệu quả” đến “rất không hiệu quả” trong việc giúp họ mở rộng ngư trường và tăng thu nhập. Trong khi đó, 36% ngư dân đánh giá từ “thuận lợi” đến “rất thuận lợi” khi thực hiện giải quyết hồ sơ và thủ tục để xin phép phê duyệt đóng tàu cá. Vẫn còn 5,4% ngư dân đánh giá còn gặp khó khăn về tiếp cận vốn vay, giải ngân tín dụng từ ngân hàng. Đây là những thông tin quan trọng giúp các bên liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Từ đó, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai chính sách thủy sản để thúc đẩy nghề cá phát triển được đưa ra trong thời gian tới.</em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/49 Sử dụng artemia làm thức ăn bổ sung cho tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei Boone, 1931) trong giai đoạn đầu của quy trình nuôi tôm nhiều giai đoạn 2023-06-13T04:03:50+00:00 Đình Huy Nguyễn huynd@ntu.edu.vn Minh Hoàng Hà huynd@ntu.edu.vn Thị Bích Hồng Trương hongttb@ntu.edu.vn Đức Thao Mai thaomd@ntu.edu.vn Văn Dũng Trần dungtv@ntu.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; Mô hình nuôi nhiều giai đoạn đang được áp dụng phổ biến trong nuôi tôm thâm canh ở nước ta. Tuy nhiên, nhược điểm lớn của quy trình công nghệ này là sinh trưởng chậm và tỷ lệ sống thấp trong giai đoạn đầu. Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của việc bổ sung Artemia trong giai đoạn đầu của quy trình nuôi tôm nhiều giai đoạn. Bốn chế độ bổ sung Artemia đã được thử nghiệm, bao gồm bổ sung 1 lần/ngày, 2 lần/ngày, 3 lần/ngày và nghiệm thức đối chứng không bổ sung. Tôm được cho ăn thức ăn công nghiệp 6 lần/ngày, mỗi lần bổ sung Artemia tương ứng với mật độ 30 con Artemia/tôm/lần cho ăn. Thí nghiệm được tiến hành với 5 lần lặp trong thời gian 15 ngày, tương ứng với giai đoạn PL10-25. Kết quả đã chứng minh rằng việc bổ sung Artemia trong giai đoạn đầu đã cải thiện đáng kể tốc độ tăng trưởng, hệ số phân đàn và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng, hệ số phân đàn và tỷ lệ sống tương tự và tốt hơn ở nhóm bổ sung hai và ba lần một ngày so với nhóm bổ sung một lần một ngày và nhóm đối chứng. Từ nghiên cứu này, có thể thấy rằng việc bổ sung Artemia trong giai đoạn đầu của quy trình nuôi tôm nhiều giai đoạn là cần thiết. Chế độ bổ sung được khuyến nghị là 2 lần/ngày, với 30 Artemia/tôm/lần cho ăn nhằm tối ưu hóa cả hiệu quả kinh tế và kỹ thuật trong quá trình nuôi.</em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/50 Thử nghiệm nuôi kết hợp cá chim vây vàng (Trachinotus blochii Lacépède, 1801) và hải sâm cát (Holothuria scabra Jaeger, 1833) trong ao 2023-06-14T02:00:51+00:00 Như Thủy Mai thuymn@ntu.edu.vn Thị Khanh Phạm khanhpt@ntu.edu.vn Đại Thanh Phương Quảng thuymn@ntu.edu.vn Đình Quang Duy Nguyễn thuymn@ntu.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; Nghiên cứu thử nghiệm nuôi kết hợp cá chim vây vàng (</em><em>Trachinotus blochii</em> <em>Lacépède, 1801)</em> <em>và hải sâm cát (</em><em>Holothuria scabra</em> <em>Jaeger, 1833) </em><em>được thực hiện trong ao với diện tích 500m<sup>2</sup>/ao tại Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Trung, Huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Tỷ lệ nuôi kết hợp cá chim vây vàng: hải sâm cát là 1:1, mật độ thả cá 2con/m<sup>2</sup>, hải sâm 2con/m<sup>2</sup>. Trong quá trình nuôi thử nghiệm, cho cá chim vây vàng ăn thức ăn tổng hợp dành cho cá biển có hàm lượng protein từ 43 – 55% (tính theo chất khô). Sau 6 tháng nuôi, cá chim vây vàng từ cỡ giống 2,5g/con đã đạt khối lượng trung bình 272,2 ± 5,6g/con, tỷ lệ sống 85,85 ± 4,47%; hải sâm cát đã tăng khối lượng từ 5,5g/con lên 301,9 ± 5,6g/con, tỷ lệ sống 93,15 ± 5,02%. Kết quả của nghiên cứu này là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu xây dựng và nhân rộng mô hình nuôi kết hợp cá chim vây vàng với hải sâm cát trong ao nhằm góp phần tăng hiệu quả kinh tế và phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững.</em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/51 Nhân giống san hô Euphyllia glabrescens (Chamisso & Eysenhardt, 1821) trên các giá thể khác nhau trong hệ thống tuần hoàn 2023-06-14T02:26:06+00:00 Thị Anh Phạm anhpt@ntu.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; Việc nhân giống san hô sẽ làm giảm khai thác san hô ngoài tự nhiên</em><em>, phục hồi các rạn san hô, bảo tồn đa dạng sinh học cũng như cung cấp nguồn san hô thí nghiệm cho các nghiên cứu. Trong thí nghiệm này, san hô Euphyllia glabrescens được nhân giống bằng phương pháp tách mảnh và gắn trên 3 giá thể khác nhau bao gồm: san hô chết, gạch nung và xi măng trắng. Các mảnh san hô mới tách được đặt trong hệ thống bể tuần hoàn, ánh sáng bằng đèn led Illumagic X có cường độ chiếu sáng từ 9.000<sup>0</sup>K-20.000<sup>0</sup>K, nhiệt độ dao động từ 26-27<sup>0</sup>C. Từ ngày 1 đến ngày 7 không cho san hô ăn, sau 7 ngày sử dụng thức ăn công nghiệp (SPS coral food) cho ăn hàng ngày. Kết quả thí nghiệm cho thấy có sự khác nhau về tỷ lệ sống của san hô, trong đó tỷ lệ sống của san hô cấy trên giá thể san hô cho tỷ lệ sống cao nhất 73,33 ± 1,76%; tiếp đến là xi măng trắng 55,33 ± 2,44%)và cuối cùng là chân đế gạch nung 54,67 ± 2,73%. Tốc độ tăng trưởng đặc trưng (SGR) có sự sai khác giữa các nghiệm thức (p&lt;0,05). San hô phân mảnh được gắn trên đế san hô chết có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với hai nghiệm thức chân đế gạch nung và chân đế xi măng trắng trong điều kiện thí nghiệm. </em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/52 Ảnh hưởng của độ mặn lên kết quả ương cá khế vằn (Gnathanodon speciosus Forsskål, 1775) giai đoạn giống 2023-06-14T02:31:17+00:00 Văn Mạnh Ngô manhnv@ntu.edu.vn Thị Thanh Hoàng thanhht@ntu.edu.vn Đức Hùng Phạm hungpd@ntu.edu.vn Văn Dũng Trần dungtv@ntu.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của độ mặn lên tăng trưởng, tỷ lệ sống, hiệu quả sử dụng thức ăn và khả năng chịu sốc của cá khế vằn giai đoạn giống. Cá con có kích thước ban đầu 2,0 cm và khối lượng 0,18 g/con được thả ngẫu nhiên vào các bể composite (hình trụ tròn) có thể tích 70 L/bể. Bốn mức độ mặn được thử nghiệm gồm 5‰, 15‰, 25‰ và 33‰. Cá được ương với mật độ 2 con/L và cho ăn thức ăn viên với tỷ lệ 5 - 7% BW/ngày, chia làm 4 lần/ngày. Mỗi nghiệm thức được thực hiện với 03 lần lặp trong thời gian 28 ngày. Kết quả cho thấy độ mặn ảnh hưởng đáng kể đến các chỉ tiêu sinh trưởng, hệ số phân đàn, sinh khối, hiệu quả sử dụng thức ăn, tỷ lệ sống và khả năng chịu sốc nhiệt độ của cá. Nhìn chung, cá được ương ở độ mặn 25 - 33‰ cho kết quả tốt hơn cá nuôi ở độ mặn 5 - 15‰. Tuy nhiên, cá nuôi ở độ mặn thấp (5 - 15‰) lại chịu sốc nước ngọt tốt hơn cá nuôi ở độ mặn cao (25 - 33‰). Đáng chú ý, độ mặn không ảnh hưởng đến tỷ lệ dị hình của cá. Nghiên cứu cho thấy độ mặn từ 25 - 33‰ là thích hợp để ương cá khế vằn giai đoạn giống.</em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/53 Ảnh hưởng của việc bổ sung nhộng ruồi lính đen trong thức ăn lên tăng trưởng và độ tiêu hóa protein của cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) 2023-06-14T02:45:13+00:00 Phúc Cẩm Tú Nguyễn npctu@hcmuaf.edu.vn Ngọc Hà Nguyễn npctu@hcmuaf.edu.vn Thế Nhân Đinh npctu@hcmuaf.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng nhộng ruồi lính đen (Hermetia illucens) (RLĐ) tươi như chất bổ sung trong thức ăn lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử dụng thức ăn (FCR) của cá chẽm (Lates calcarifer). Cá chẽm giống (khối lượng trung bình 20,2 ± 0,3 g/con) được thả nuôi trong bể composite 1,5 m<sup>3</sup> với mật độ 30 con/bể và nuôi trong 90 ngày. Thức ăn viên thương mại với hàm lượng protein 44% được dùng trong thí nghiệm. Các nghiệm thức thí nghiệm gồm các khẩu phần thức ăn có bổ sung một lượng nhỏ RLĐ tươi: NT1: không bổ sung RLĐ; NT2: bổ sung 0,5% RLĐ; NT3: bổ sung 1% RLĐ và NT4: bổ sung 2% RLĐ. Độ tiêu hóa protein trong thức ăn được đánh giá bằng phương pháp gián tiếp dùng ôxýt crôm như chất đánh dấu trơ. Kết quả sau 90 ngày nuôi cho thấy tỷ lệ sống của cá chẽm đạt cao nhất ở NT2 (93,3 ± 3,3%) và thấp nhất ở NT3 (81,1 ± 11,7%). Nghiệm thức NT3 ghi nhận khối lượng cá cuối thí nghiệm và tốc độ tăng trưởng chuyên biệt đạt cao nhất, trong khi FCR thấp nhất. Độ tiêu hóa protein trung bình dao động trong khoảng từ 85,8 đến 88,2%. Sự khác biệt về độ tiêu hóa protein giữa các nghiệm thức không có ý nghĩa thống kê (P&gt;0,05).</em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/54 Ảnh hưởng của dịch thủy phân protein từ vỏ đầu tôm bổ sung vào thức ăn đến tăng trưởng, tỷ lệ sống, sinh hóa và chỉ số huyết học của cá hồi vân Oncorhynchus mykiss giai đoạn giống 2023-06-14T02:56:02+00:00 Sĩ Trung Trang trungts@ntu.edu.vn Văn Khương Đinh khuong.dinh@ntu.edu.vn Minh Hoàng Lê hoanglm@ntu.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc bổ sung dịch thủy phân protein từ vỏ đầu tôm (0% (đối chứng), 1, 3 và 5%) lên sinh trưởng, tỷ lệ sống, sinh hóa và huyết học của cá hồi vân Oncorhynchus mykiss giai đoạn giống. Khối lượng tăng lên trung bình (WG), tốc độ tăng trưởng đặc trưng (SGR), hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), hiệu quả sử dụng protein (PER) và tỷ lệ sống (SR) được đánh giá sau 8 tuần thí nghiệm. WG, SGR, FCR, PER và SR thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P&lt;0,05) ở các nghiệm thức. Cá được cho ăn 5% dịch thủy phân protein cho kết quả tốt nhất. Số lượng bạch cầu (WBC), hồng cầu (RBC), huyết sắc tố (Hb) và hematocrit (Hct) tăng đáng kể khi lượng protein thủy phân trong khẩu phần ăn tăng lên. Hàm lượng protein và triglycerid trong huyết tương không bị ảnh hưởng đáng kể ở các nghiệm thức (P&gt;0,05). Hơn nữa, hàm lượng lipid trong cơ và toàn bộ cơ thể cao hơn ở cá được cho ăn 3% và 5% dịch thủy phân protein từ vỏ đầu tôm so với các nghiệm thức còn lại, nhưng hàm lượng protein trong cơ và cơ thể ở nhóm cho ăn 5% cao hơn so với các nghiệm thức còn lại. Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy rằng dịch thủy phân protein từ vỏ đầu tôm có tiềm năng tốt để sử dụng làm chất bổ sung protein trong khẩu phần ăn của cá hồi vân lên đến 5%. Thức ăn có bổ sung dịch thủy phân protein từ vỏ đầu tôm cũng có tiềm năng như một chất tăng cường miễn dịch vì sự gia tăng số lượng bạch cầu. Những dữ liệu thu được từ nghiên cứu này cho thấy khả năng sử dụng vỏ đầu tôm từ ngành công nghiệp chế biến để phục vụ tốt cho nghề nuôi cá hồi vân. </em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/55 Chọn lọc của lưới rê với kích thước mắt lưới tối thiểu được phép sử dụng để đánh bắt cá mòi cờ hoa (Clupanodon thrissa) 2023-06-14T03:05:53+00:00 Trọng Lương Nguyễn luongnt@ntu.edu.vn Khánh Thụy Anh Phạm anhpkt@ntu.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp của Holt (1963) để xác định khả năng chọn lọc theo chiều dài cá mòi cờ hoa (Clupanodon thrissa) đánh bắt bởi 5 mẫu lưới rê với kích thước mắt lưới khác nhau. Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 11 năm 2021 đến tháng 10 năm 2022 tại vùng biển ven bờ của huyện Nghi Lộc và thị xã Cửa Lò của tỉnh Nghệ An. Quá trình thử nghiệm đã sử dụng 5 mẫu lưới với kích thước mắt lưới gồm 45, 50, 55, 60 và 65 mm. Nghiên cứu đã thu số liệu của 120 mẻ lưới với tổng số 1.789 cá thể cá mòi cờ hoa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chiều dài toàn thân khai thác tối ưu của cá mòi cờ hoa lần lượt là 135,4; 150,4; 165,5; 180,5; 195,5 mm và chiều dài đến chẽ vây đuôi tối ưu là 112,9; 125,5; 138,0; 150,6 và 163,1 mm tương ứng với kích thước mắt lưới 45, 50, 55, 60 và 65 mm. Hệ số chọn lọc chung theo chiều dài toàn thân là 3,0 và chiều dài đến chẽ vây đuôi là 2,5. Kích thước mắt lưới tối thiểu từ 67 mm được xem là phù hợp để đánh bắt cá mòi cờ hoa với chiều dài toàn thân 200 mm tại vùng biển nghiên cứu.</em></p> 2023-07-22T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/56 Ảnh hưởng của tần suất cho ăn lên kết quả ương cá khế vằn (Gnathanodon speciosus Forsskål, 1775) giai đoạn giống 2023-06-14T03:09:37+00:00 Văn Mạnh Ngô manhnv@ntu.edu.vn Chí Dũng Ngô manhnv@ntu.edu.vn Văn Dũng Trần dungtv@ntu.edu.vn Minh Hoàng Lê hoanglm@ntu.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá ảnh hưởng của tần suất cho ăn đến tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá khế vằn giai đoạn giống. Thí nghiệm một nhân tố được thiết kế theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn với 4 nghiệm thức cho ăn gồm 2, 4, 6 và 8 lần/ngày. Cá khế vằn, kích thước ban đầu là 2,64 ± 0,07 cm và 0,41 ± 0,03 g/con, được ương trong các bể composite 70 lít với mật độ 1 con/lít. Mỗi nghiệm thức được thực hiện với 3 lần lặp trong khoảng thời gian 28 ngày. Kết quả cho thấy các chỉ tiêu sinh trưởng (chiều dài, khối lượng, sinh khối) của cá đạt được cao nhất ở chế độ cho ăn 6 và 8 lần/ngày, tiếp theo là 4 lần/ngày và thấp nhất ở nghiệm thức cho ăn 2 lần/ngày (P&lt;0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các chỉ tiêu tăng trưởng và sinh khối của cá giữa hai nghiệm thức cho ăn 6 lần/ngày và 8 lần/ngày (P &gt; 0,05). Tần suất cho ăn có ảnh hưởng đến hệ số phân đàn khối lượng (P&lt;0,05) nhưng không ảnh hưởng đến hệ số phân đàn chiều dài, hệ số điều kiện, tỷ lệ sống và tỷ lệ dị hình của cá (P &gt; 0,05). Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) ở các nghiệm thức cho ăn 4, 6 và 8 lần/ngày thấp hơn so với nghiệm thức cho ăn 2 lần/ngày (P &lt; 0,05). Kết quả phân tích tương quan cho thấy tốc độ tăng trưởng chiều dài đạt giá trị cực đại tại tần suất cho ăn 6,5 lần/ngày. Từ các kết quả trên, có thể thấy tần suất cho ăn 6 lần/ngày là thích hợp cho ương cá khế vằn giai đoạn giống.</em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/57 Ảnh hưởng của thức ăn và tần suất cho ăn lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và hệ số thức ăn của ốc nhảy Strombus canarium (Linnaeus, 1758) 2023-06-29T02:47:39+00:00 Trọng Đại Vũ daivt@ntu.edu.vn Văn Toàn Đỗ daivt@ntu.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; Thí nghiệm ảnh hưởng của các loại thức ăn chế biến (4 loại</em> <em>thức ăn) và tần suất cho ăn (3 tần suất cho ăn) khác nhau lên sinh trưởng, tỷ lệ sống và hệ số thức ăn (FCR) của ốc nhảy giai đoạn giống được thực hiện trong 120 ngày tại Nha Trang, Khánh Hòa nhằm xác định được loại thức ăn và số lần cho ăn thích</em><em> hợp</em><em> cho ương giống ốc nhảy. Ốc nhảy được nuôi trong bể xi măng diện tích 12</em> <em>m<sup>2</sup>, mật độ 80 con/m<sup>2</sup></em><em>. Kết quả cho thấy thức ăn chế biến từ nguồn protein khác nhau ảnh hưởng rõ rệt tới các chỉ tiêu </em><em>sinh trưởng và tỷ lệ sống của ốc. Chiều dài và khối lượng của ốc khi cho ăn thức ăn chế biến từ cá tạp đạt</em> <em>cao nhất, lần lượt 30,7 ± 0,3 mm và 2,18 ± 0,07 g (P &lt; 0,05). Tỷ lệ sống của ốc (77,0%) cao nhất ở nghiệm thức sử dụng thức ăn chế biến từ cá tạp tương ứng với hệ số FCR thấp nhất (1,63) (P &lt; 0,05). Sinh trưởng của ốc nhảy ở nghiệm thức</em><em> cho ăn</em><em> 3 và 4 lần/ngày (chiều cao 30,7 </em><em>- </em><em>&nbsp;31,5 mm và khối lượng 2,13 </em><em>- </em><em>2,17 g) cao hơn so với nghiệm</em><em> thức cho ăn</em><em> 2 lần/ngày (25,5 mm và 1,57 g) (P &lt; 0,05). Tương tự, hệ số thức ăn FCR ở nghiệm thức cho ăn 3 và 4 lần/ngày thấp hơn so với nghiệm thức</em> <em>cho ăn 2 lần/ngày (P &lt; 0,05). Tuy nhiên, tần suất cho ăn không ảnh hưởng tới tỷ lệ sống của ốc, dao động 75,3 – 78,7 % (P &gt; 0,05). Nghiên cứu cho</em><em> thấy tiềm năng của việc sử dụng thức ăn chế biến để nâng cao hiệu quả </em><em>nuôi</em> <em>ốc nhảy da vàng.</em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/58 Nghiên cứu quá trình xử lý amoni trong nước thải chế biến thủy sản theo nguyên lý feammox 2023-06-29T03:08:07+00:00 Thị Tâm Trần trantam@ntu.edu.vn Trọng Danh Trương danhtt@ntu.edu.vn Thị Ngọc Bùi chunglp@ntu.edu.vn Phương Chung Lê chunglp@ntu.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Việc loại bỏ amoni trong nước thải đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, trong đó nước thải từ các nhà máy chế biến thủy sản là một trong những vấn đề được các nhà quản lý môi trường quan tâm hiện nay. Theo phương pháp truyền thống, amoni thường được xử lý bằng biện pháp sinh học sử dụng hệ vi sinh vật hiếu khí theo con đường nitrate hóa/khử nitrate hoặc hệ vi sinh vật kỵ khí theo con đường nitrate hóa bán phần/ANAMMOX. Nghiên cứu này thử nghiệm một nguyên lý mới sử dụng hệ bùn vi sinh vật kỵ khí là Feammox đối với nước thải chế biến thủy sản. Với mô hình feammox thử nghiệm có thể tích 40 L được thực hiện trong 14 ngày, nước thải chế biến đưa vào mô hình có hàm lượng COD khoảng 800 ÷ 1200 mg/L, amoni là 90 ÷ 110 mg/L. Kết quả theo dõi cho thấy pH duy trì trong khoảng 6,5 ÷ 7,7, điện thế oxy hóa khử dao động trong khoảng -25 ÷ 55 mV, hàm lượng amoni bị loại bỏ đạt trên 90%, đáp ứng các yêu cầu xả thải hiện hành. Kết quả nghiên cứu mở bước đầu cho thấy tiềm năng ứng dụng nguyên lý feammox trong xử lý nước thải chế biến thủy sản hiện nay.</em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/59 Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình bảo quản lạnh của kết cấu hầm bảo quản sử dụng vật liệu polystyro foam trên tàu cá vỏ gỗ 2023-06-29T03:15:57+00:00 Đình Khương Nguyễn khuongnd@ntu.edu.vn Thanh Nhựt Phạm nhutpt@ntu.edu.vn Văn Dũng Đỗ khuongnd@ntu.edu.vn Vũ Xuân Thì Nguyễn khuongnd@ntu.edu.vn Văn Giang Nguyễn khuongnd@ntu.edu.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; Bài báo đã sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết thông qua vận dụng các bài toán truyền nhiệt để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến các hầm bảo quản cá trên các tàu cá vỏ gỗ hiện nay. Kết quả nghiên cứu đã tính được giá trị tổn thất nhiệt của một hầm bảo quản thực tế của tàu cá vỏ gỗ lựa chọn; Tính tổn thất nhiệt của mô hình hầm bảo quản; Tìm ra được những nguyên nhân chính dẫn đến sự tăng nhiệt độ của hầm bảo quản; Đưa ra những kết luận có tính chất giải pháp cải tiến các hầm bảo quản hiện nay, nhằm nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả bảo quản thủy sản sau đánh bắt.</em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/60 Nghiên cứu chọn giống nâng cao sinh trưởng tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) thế hệ G8 2023-06-29T03:22:46+00:00 Hữu Hùng Nguyễn nguyenhuuhung@ria3.vn Công Trứ Đinh nguyenhuuhung@ria3.vn Đình Tý Vũ nguyenhuuhung@ria3.vn <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; Nghiên cứu chọn giống nâng cao sinh trưởng về khối lượng và chiều dài đã được thực hiện trên tôm thẻ chân trắng bắt đầu từ năm 2012. Đến năm 2022, chương trình chọn giống tôm thẻ chân trắng đã đạt được những kết quả nhất định và đã chọn giống đến thế hệ G<sub>8</sub>. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu các thông số di truyền đối với tính trạng khối lượng tôm chọn giống thế hệ G<sub>8</sub>. T</em><em>ổng số 120 gia đình tôm chọn giống thế hệ G<sub>8</sub> được lai tạo từ 105 con tôm đực và 120 tôm cái, trong đó gồm 90 gia đình full-sib và 30 gia đình half-sib. </em><em>Hệ số di truyền tính trạng chiều dài của tôm chọn giống ở mức thấp đối với tôm nuôi trong ao đạt 0,10 ± 0,02 và mức cao đối với nuôi trong bể đạt 0,44 ± 0,09. Đối với tính trạng khối lượng, tôm nuôi trong ao đạt 0,14 ± 0,03 và tôm nuôi trong bể đạt 0,50 ± 0,10. Tương quan kiểu hình (r<sub>p</sub>), nuôi trong ao là 0,98 ± 0,007; nuôi trong bể 0,95 ± 0,012; cả hai môi trường (ao + bể) là 0,96 ± 0,013. Tương quan kiểu gen (r<sub>g</sub>) nuôi trong ao là 0,92 ± 0,002; nuôi trong bể 0,86 ± 0,006 ; cả hai môi trường (ao + bể) là 0,90 ± 0,002 . Hiệu quả chọn giống nuôi trong bể, khối lượng đạt 6,65% và 6,56% đối với tính trạng chiều dài. Tôm nuôi trong ao, hiệu quả chọn lọc đạt 6,47% đối với tính trạng khối lượng và 6,74% đối với tính trạng chiều dài. </em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/61 Hiện trạng bảo vệ nguồn lợi hải sản ở vùng biển ven bờ và vùng lộng tỉnh Nghệ An 2023-06-29T03:29:56+00:00 Sỹ Tấn Phạm phamsitan51hh@gmail.com Phi Toàn Nguyễn phamsitan51hh@gmail.com Văn Bôn Lê phamsitan51hh@gmail.com <p style="text-align: justify;"><em>&nbsp; &nbsp; Nghiên cứu hiện trạng bảo vệ nguồn lợi hải sản ở vùng biển ven bờ và vùng lộng tỉnh Nghệ An với mục tiêu cung cấp cơ sở khoa học nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ nguồn lợi hải sản và đưa ra các giải pháp quản lý hoạt động khai thác theo hướng bền vững, trên cơ sở điều tra thu thập số liệu thứ cấp và sơ cấp tại Nghệ An trong năm 2021 và năm 2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy, lực lượng thanh tra chuyên ngành thủy sản ở tỉnh Nghệ An còn thiếu. Công tác tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp luật và hoạt động tuần tra, kiểm tra, kiểm soát đã được thực hiện thường xuyên. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm quy định về bảo vệ nguồn lợi hải sản vẫn còn diễn ra: 100% tàu cá làm nghề lưới kéo, nghề lưới chụp và nghề lồng bát quái vi phạm kích thước mắt lưới tại bộ phận tập trung cá, tỷ lệ này ở nghề lưới rê và nghề lưới vây cá cơm lần lượt là 82,1% và 12,5%; 14,4% tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 6-&lt;12 m thường xuyên ra vùng lộng để đánh bắt, 41,2% tàu cá từ 12-&lt;15 m thường xuyên vào vùng ven bờ để khai thác, riêng đối với nhóm tàu cá &lt;6 m không vi phạm vùng biển khai thác; 100% ngư dân cho rằng sản lượng khai thác giảm so với những năm trước.</em></p> 2023-06-30T00:00:00+00:00 Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang