Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu <p style="text-align: justify; text-indent: 1.0cm; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><span class="noidung"><span style="color: black;">Tạp chí Khoa học - Công nghệ thủy sản ISSN: 1859 - 2252 (được Bộ Văn hóa Thông tin cấp giấy phép xuất bản ngày 10/4/2003 tại quyết định số 112/GP-BVHTT) là cơ quan ngôn luận về khoa học của Trường Đại học Nha Trang, xuất bản 4 số/năm với ngôn ngữ thể hiện bằng tiếng Việt và tiếng Anh, được phát hành rộng rãi và miễn phí. Tạp chí được phát hành trên toàn quốc: doanh nghiệp trong ngành thủy sản, kinh tế biển, các sở khoa học - công nghệ trên toàn quốc, các trường đại học, viện nghiên cứu trong khối nông - lâm - ngư…và một số Trường Đại học, Viện nghiên cứu nước ngoài.</span></span></p> <p style="text-align: justify; text-indent: 1.0cm; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><span class="noidung"><span style="color: black;">Tôn chỉ, mục đích của Tạp chí:</span></span></p> <p style="text-indent: 1.0cm; text-align: start; box-sizing: border-box; font-variant-ligatures: normal; font-variant-caps: normal; orphans: 2; widows: 2; -webkit-text-stroke-width: 0px; text-decoration-thickness: initial; text-decoration-style: initial; text-decoration-color: initial; word-spacing: 0px; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><span style="box-sizing: border-box;"><span class="noidung"><span style="color: black;">- Thông tin, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và phát triển thủy sản.</span></span></span></p> <p style="text-indent: 1.0cm; text-align: start; box-sizing: border-box; font-variant-ligatures: normal; font-variant-caps: normal; orphans: 2; widows: 2; -webkit-text-stroke-width: 0px; text-decoration-thickness: initial; text-decoration-style: initial; text-decoration-color: initial; word-spacing: 0px; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><span style="box-sizing: border-box;"><span class="noidung"><span style="color: black;">- Công bố, giới thiệu các công trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực thủy sản nhằm phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu, giảng dạy của nhà Trường;</span></span></span></p> <p style="text-indent: 1.0cm; text-align: start; box-sizing: border-box; font-variant-ligatures: normal; font-variant-caps: normal; orphans: 2; widows: 2; -webkit-text-stroke-width: 0px; text-decoration-thickness: initial; text-decoration-style: initial; text-decoration-color: initial; word-spacing: 0px; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><span style="box-sizing: border-box;"><span class="noidung"><span style="color: black;">- Thông tin các kết quả nghiên cứu khoa học về thủy sản ở trong và ngoài nước;</span></span></span></p> <p style="text-align: justify; text-indent: 1.0cm; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><span class="noidung"><span style="color: black;">Với mong muốn thực sự trở thành diễn đàn của những người hoạt động khoa học công nghệ trong lĩnh vực thuỷ sản, Ban biên tập Tạp chí rất mong muốn nhận được sự cộng tác, trao đổi học thuật của các tổ chức, cá nhân trên các lĩnh vực nghiên cứu về khoa học công nghệ thủy sản.</span></span></p> <p style="text-align: justify; text-indent: 1.0cm; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><span class="noidung"><span style="color: black;">Các bài báo đăng trên Tạp chí đã được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước công nhận và tính điểm công trình khi xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh Giáo sư, Phó giáo sư hàng năm.</span></span></p> <p style="text-align: justify; text-indent: 1.0cm; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><strong><span class="noidung"><span style="color: black;">Năm 2024, Tạp chí đã được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước công nhận và tính điểm công trình (theo Quyết định số 25/QĐ-HĐGSNN ngày 5/7/2024) ở các chuyên ngành:</span></span></strong></p> <p style="text-align: justify; text-indent: 1.0cm; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><strong><span class="noidung"><span style="color: black;">1. HĐGS ngành, liên ngành Chăn nuôi – Thú y – Thủy sản: 1,0 điểm</span></span></strong></p> <p style="text-align: justify; text-indent: 1.0cm; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><strong><span class="noidung"><span style="color: black;">2. HĐGS ngành, liên ngành Cơ khí – Động lực: 0,5 điểm</span></span></strong></p> <p style="text-align: justify; text-indent: 1.0cm; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><strong><span class="noidung"><span style="color: black;">3. HĐGS ngành, liên ngành Giao thông vận tải: 0,25 điểm</span></span></strong></p> <p style="text-align: justify; text-indent: 1.0cm; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><strong><span class="noidung"><span style="color: black;">5. HĐGS ngành, liên ngành Hóa học – Công nghệ thực phẩm: 0,5 điểm</span></span></strong></p> <p style="text-align: justify; text-indent: 1.0cm; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><strong><span class="noidung"><span style="color: black;">6. HĐGS ngành, liên ngành Nông nghiệp – Lâm nghiệp: 0,5 điểm</span></span></strong></p> <p style="text-align: justify; text-indent: 1.0cm; margin: 0cm 0cm 6.0pt 0cm;"><strong><span class="noidung"><span style="color: black;">7. HĐGS ngành, liên ngành Sinh học: 0,5 điểm</span></span></strong></p> vi-VN Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 OJS 3.3.0.13 http://blogs.law.harvard.edu/tech/rss 60 Ảnh hưởng của thức ăn và mật độ ương đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của mực lá (<i>Sepioteuthis lessoniana</i> Férussac, 1831) giai đoạn giống https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/143 <p><em>Nghiên cứu nhằm xác định ảnh hưởng của các loại thức ăn và mật độ ương lên </em><em>tỷ lệ sống và sinh trưởng của </em><em>giống mực lá trong 02 giai đoạn. Giai đoạn 01 từ mực mới nở đến 10 ngày tuổi gồm 02 thí nghiệm</em><em>. </em><em>Thí nghiệm 1</em><em> gồm </em><em>0</em><em>4 nghiệm thức,</em><em> đánh giá sự ảnh hưởng của 04 loại thức ăn gồm</em><em>:</em> <em>ấu trùng cá bớp (Rachycentron canadum), </em><em>m</em><em>ysidae</em><em>, </em><em>h</em><em>ậu ấu trùng </em><em>tôm thẻ</em><em> chân trắng (</em><em>Litopenaeus vannamei</em><em>)</em><em> và </em><em>a</em><em>rtemia trưởng thành lên sự phát triển của </em><em>mực giống.</em><em> Thí nghiệm 2 sử dụng ấu trùng cá bớp làm thức ăn ương nuôi mực lá ở 03 mức mật độ: 01, 03 và 05 con/L. Giai đoạn 02 từ 10 ngày tới 30 ngày tuổi gồm 02 thí nghiệm. Thí nghiệm 3 gồm 03 nghiệm thức, tương ứng 03 loại thức ăn: tôm thẻ chân trắng sống cỡ nhỏ, cá bảy màu (Poecilia reticulata) và thức ăn tươi; Thí nghiệm 4 sử dụng tôm thẻ chân trắng sống cỡ nhỏ để ương giống mực lá ở 03 mật độ: 200, 400 và 600 con/m<sup>3</sup>. Mỗi nghiệm thức lặp lại 03 lần. Kết quả của thí nghiệm 1 và 2 cho thấy sử dụng ấu trùng cá bớp, mật độ ương 01 con/L cho tỷ lệ sống, tỷ lệ tăng trưởng cao nhất khi ương giống mực lá giai đoạn mới nở tới 10 ngày tuổi. Thí nghiệm 3 và 4 cho thấy khi ương giống mực lá ở giai đoạn 10 tới 30 ngày tuổi, mực cho ăn tôm thẻ chân trắng sống và ương ở mật độ 200 và 400 con/m<sup>3</sup> có tỷ lệ sống và tỷ lệ tăng trưởng cao nhất. Những kết quả này là căn cứ quan trọng để xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất giống mực lá.</em></p> <p><strong>Từ khóa:</strong> mực lá, con giống mực lá, sản xuất giống nhân tạo mực lá, ương giống mực lá<em>.</em></p> Thân Văn Hoàn, Nguyễn Khánh Nam*, Võ Thị Mỹ Dung, Lê Thị Hiền Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/143 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Vai trò của các tổ chức kinh tế tập thể đối với hiệu quả tài chính của hộ nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ở tỉnh Sóc Trăng https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/253 <p>Nhằm đánh giá vai trò của các hình thức kinh tế tập thể (KTTT) đối với hiệu quả tài chính, 90 hộ nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh tại tỉnh Sóc Trăng đã được phỏng vấn. Phương pháp thống kê mô tả, so sánh thống kê và hồi qui đa biến được sử dụng. Kết quả cho thấy qui mô sản xuất, mật độ nuôi và năng suất của hộ KTTT (50,1 con/m<sup>2</sup> và 4,48 tấn/ha/vụ) cao hơn so với các hộ nuôi riêng lẻ (44,5 con/m<sup>2</sup> và 3,84 tấn/ha/vụ). Không có sự khác biệt trong các chỉ tiêu về chi phí nhưng lợi nhuận khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai hình thức (241,81 triệu đồng/ha/vụ đối với hộ thuộc KTTT so với 172,61 triệu đồng/ha/vụ của hộ nuôi riêng lẻ). Các tổ chức KTTT có vai trò tập hợp, liên kết sản xuất, nâng cao trình độ nông dân thông qua các lớp tập huấn, thực hiện cho vay vốn xoay vòng ưu đãi cho thành viên và nâng cao chất lượng tôm thông qua việc hỗ trợ hướng dẫn người dân nuôi theo các tiêu chuẩn chứng nhận như ASC và VietGAP, từ đó nâng cao thu nhập cho nông hộ. Kết quả hồi qui đa biến cũng chỉ ra rằng hình thức KTTT tác động có ý nghĩa thống kê (P=5%) đối với lợi nhuận nuôi tôm. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra được những luận chứng khoa học về vai trò của các tổ chức KTTT. Do đó, nông dân cần được tuyên truyền và vận động tham gia vào các tổ chức KTTT.</p> <p><strong>Từ khóa:</strong> Hợp tác xã, kinh tế tập thể, thâm canh, tổ hợp tác, tôm thẻ chân trắng.</p> Nguyễn Thị Kim Quyên*, Huỳnh Văn Hiền, Đặng Thị Phượng, Trương Thị Ánh Tuyết Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/253 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Ảnh hưởng của điều kiện nuôi và thức ăn đến sự thành thục sinh dục của cá neon hoàng đế (<i>Nematobrycon palmeri</i>) https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/484 <p><em>Cá neon hoàng đế là loài cá cảnh nước ngọt ngoại nhập được ưa chuộng trên thị trường cá cảnh trong nước và thế giới. Nghiên cứu được thực hiện </em><em>nhằm</em><em> xác định khả năng ảnh hưởng của thức ăn và điều kiện nuôi đến sự thành thục sinh dục của cá neon hoàng đế. Nghiên cứu gồm 2 thí nghiệm: (1) nuôi vỗ cá neon hoàng đế với </em><em>3 loại</em> <em>điều kiện nuôi khác nhau</em><em>: bể kính bình thường, bể thủy sinh, bể gỗ lũa</em><em>, (2) nuôi vỗ cá neon hoàng đế </em><em>với 3</em><em> loại thức ăn khác nhau</em><em>: Artemia tươi sống, trùn chỉ, thứ ăn viên</em><em>. Kết quả cho thấy, cá đực đạt tỷ lệ thành thục tốt nhất ở nghiệm thức bể thủy sinh (hơn 78%), cá cái đạt</em> <em>tỷ lệ thành thục </em><em>tốt nhất (hơn 87%) ở nghiệm thức bể kính</em><em>. </em><em> Thức ăn nuôi vỗ thích hợp cho cá neon hoàng đế là Artemia tươi sống</em> <em>và trùn chỉ, tỷ lệ thành thục của cá dao động từ 76 - 85%.</em> <em>Điều kiện nuôi và khẩu phần ăn thích hợp có thể cải thiện tỷ lệ thành thục của cá neon hoàng đế </em><em>(Nematobrycon palmeri)</em><em> qua đó cải thiện sức sinh sản, nâng cao hiệu quả sản xuất giống.</em></p> <p><strong>Từ khóa :</strong> Cá neon hoàng đế, <em>Nematobrycon palmeri</em>, thành thục sinh dục, điều kiện nuôi, khẩu phần thức ăn.</p> Nguyễn Hồng Yến, Lâm Hoàng Lai, Nguyễn Thị Phương Thanh Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/484 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Nuôi cá chẽm (<i>Lates Calcarifer</i>, Bloch, 1790) thương phẩm trong hệ thống “Sông trong ao” tại Khánh Hòa https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/485 <p><em>Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá các chỉ số môi trường và sinh trưởng của cá chẽm nuôi trong hệ thống “sông trong ao”. Cá chẽm giống có</em><em> kích cỡ 14cm</em><em>, </em><em>đồng đều, </em><em>mật độ 69 con/m<sup>3</sup>, máng nuôi thể tích 220m<sup>3</sup> (22m × 5m × 2m) đặt trong ao diện tích </em><em>10.500 m<sup>2</sup> (125m × 84 m), độ sâu 2,5m</em><em>. </em><em>Thức ăn công nghiệp dạng viên chìm chậm với hàm lượng đạm từ 45-48%, cho ăn vào 7h (30% - 40%) và 16h (60 - 70%), giai đoạn cá nhỏ ăn 5 - 7%, giai đoạn cá lớn ăn 2 - 5% trọng lượng cơ thể. Sau 10 tháng, c</em><em>á chẽm thương phẩm nuôi trong hệ thống sông trong ao đạt tỷ lệ sống 87,8%; kích cỡ trung bình 864,9 g/con, tốc độ tăng trưởng về khối lượng đạt </em><em>2,8 g/ngày, </em><em>tốc độ tăng trưởng về chiều dài đạt </em><em>0,09 cm/ngày</em><em>. Sản lượng thu hoạch đạt 12.295 kg, trung bình đạt 55,9 kg/m<sup>3</sup>, cao hơn so với khuyến cáo của Hiệp hội đậu nành Hoa Kỳ (&gt; 40 kg/m<sup>3</sup>).</em><em> Đây là bước tiên phong cho quá trình nghiên cứu nhân rộng mô hình thực hiện tại địa phương cũng như những vùng nuôi ven biển nhằm nâng cao năng suất và sản lượng trên một đơn vị diện tích mặt nước.</em></p> <p><strong>Từ khóa:</strong> cá chẽm thương phẩm, hệ thống “sông trong ao”, IPRS.</p> Nguyễn Văn Hà*, Nguyễn Thanh Dũng, Nguyễn Thị Hương Thảo Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/485 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn và mật độ ương khác nhau lên hiệu quả nuôi cá song da báo <i>Plectropomus leopardus </i> giai đoạn cá giống https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/503 <p> <em>Nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng các loại thức thức ăn khác nhau bao gồm 5 nghiệm thức (NT) (i) NT1: 100% ấu trùng Artemia, (ii) NT2: 100% copepod, (iii): 100% thức ăn tổng hợp, (iv) NT4: 50% ấu trùng Artemia+ 50% thức ăn tổng hợp, (v) NT5: 50% copepod +50% thức ăn tổng hợp và 4 nghiệm thức mật độ nuôi lần lượt 500, 1000, 1500 và 2000 con/m<sup>3</sup> đến tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ phân đàn và tỷ lệ dị hình của cá song da báo trong giai đoạn con giống. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nghiệm thức sử dụng kết hợp 50% copepod và 50% thức ăn tổng hợp NRD-INVE (nghiệm thức 5) đã đạt tỷ lệ sống cao nhất (68,6%) cùng với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng ngày tốt nhất (0,67 mm/ngày). Ngược lại, nghiệm thức chỉ sử dụng thức ăn tổng hợp (nghiệm thức 3) cho tỷ lệ sống thấp nhất (22,2%). Ngoài ra, khi nuôi với mật độ 1000 con/m³, tỷ lệ sống cao nhất đạt được là 72,1%, trong khi nuôi với mật độ 500 con/m³ cho tỷ lệ phân đàn và dị hình thấp nhất. Qua đó, kết quả nghiên cứu khuyến nghị rằng giai đoạn ương giống cá song da báo đạt hiệu quả cao nhất khi sử dụng chế độ thức ăn kết hợp 50% copepod và 50% thức ăn tổng hợp, với mật độ nuôi 1000 con/m³.</em></p> <p><strong>Từ khoá:</strong> Cá song da báo (<em>Plectropomus leopardus</em>), thức ăn, mật độ ương, tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng, hệ số phân đàn, tỷ lệ dị hình</p> Nguyễn Anh Hiếu, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Hữu Ninh, Phạm Quốc Hùng Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/503 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Ảnh hưởng của khẩu phần và tần suất cho ăn đến kết quả ương giống cá song da báo <i>Plectropomus leopardus </i> https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/504 <p><em>Cá song da báo (Plectropomus leopardus) là loài cá biển có giá trị cao, các nghiên cứu về sản xuất giống đã thành công ở một số quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam, nhưng tỷ lệ sống vẫn còn thấp. Một trong những nguyên nhân chưa được xác định là sự phù hợp của khẩu phần và tần suất cho ăn của cá giai đoạn giống. Do đó, nghiên cứu này tập trung giải quyết 2 vấn đề trên. Cá song da báo giống sử dụng trong nghiên cứu có kích cỡ đồng đều, chiều dài trung bình 20,91 mm. Thí nghiệm khẩu phần ăn được thiết kế ở 4 mức 5 %, 8 %, 10 % và 13 % khối lượng thân; và thí nghiệm tần suất cho cá ăn là 1, 2 và 3 lần/ngày. Kết quả cho thấy khẩu phần ăn 5% khối lượng cơ thể cá (BW) giúp cá song da baó tăng trưởng nhanh nhất (p&lt;0,05) về chiều dài (41,10 ± 0,97 cm/con), khối lượng (3,43 ± 0,08 g/con) và tỷ lệ sống (76,7%). Việc gia tăng khẩu phần ăn từ 5% BW lên 10% BW có thể góp phần giảm hệ số phân đàn của cá (p&lt;0,05), nhưng không ảnh hưởng đến tỷ lệ dị hình của cá (p&gt;0,05). Kết quả về ảnh hưởng của tần suất cho ăn của cá cho thấy tăng trưởng tốt nhất của chúng được ghi nhận với chế độ cho ăn 3 lần/ngày. Với chế độ cho ăn này, tại cuối vụ ương cá đạt giá trị tối ưu (p&lt;0,05) về chiều dài (47,20 ± 1,36 cm/con), khối lượng (3,54 ± 0,29 g/con), tỷ lệ sống (73,3%). Xu hướng này cũng được ghi nhận với các chỉ tiêu hệ số phân đàn, tỷ lệ dị hình và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), tuy nhiên kết quả thống kê cho thấy sự khác biệt không có ý nghĩa khi so sánh với cá được ương với tần suất cho ăn 2 lần/ngày (p&gt;0,05). Như vậy, chế độ cho ăn với khẩu phần ăn 5% BW ở tần suất 3 lần/ngày được xác định là phù hợp nhất cho tối ưu khả năng tăng trưởng và hiệu quả sản suất cá song da báo trong giai đoạn ương từ cá hương lên cá giống.</em></p> <p><strong>Từ khoá:</strong> Cá song da báo (Plectropomus leopardus), khẩu phần ăn, tần suất cho ăn, FCR, hệ số phân đàn, tỷ lệ dị hình.</p> Nguyễn Anh Hiếu, Nguyễn Văn Hùng*, Nguyễn Hữu Ninh, Phạm Quốc Hùng Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/504 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Thiết kế, chế tạo tủ cấp đông phục vụ sấy thăng hoa đông trùng hạ thảo và thủy sản https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/506 <p><em>Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu chế tạo tủ cấp đông công suất nhỏ để phục vụ quá trình sấy thăng hoa đông trùng hạ thảo và các sản phẩm thủy sản có giá trị cao. Kết quả nghiên cứu đã chế tạo được tủ cấp đông với các thông số cơ bản: năng suất đạt 1kg/mẻ, nhiệt độ môi trường làm đông đạt -50 ± 1 <sup>o</sup>C, vận tốc gió có thể điều chỉnh từ 1 đến 5 m/s. Nhiệt độ vật liệu cũng được đo lường và giám sát trong suốt thời gian làm đông. Ngoài ra, tủ cấp đông được trang bị hệ thống điều khiển để dễ dàng vận hành, thuận tiện điều khiển nhiệt độ và tốc độ gió theo các chế độ yêu cầu. Kết quả thực nghiệm cho thấy tủ cấp đông này phù hợp để làm đông phục vụ cho quá trình sấy thăng hoa cho nhiều loại thực phẩm.</em></p> <p><strong>Từ khóa: </strong>tủ cấp đông, sấy thăng hoa, đông trùng hạ thảo, thủy sản, <strong> </strong></p> Nguyễn Văn Phúc*, Nguyễn Nguyên An, Trần Thanh Bình Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/506 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Ảnh hưởng của độ mặn ở giai đoạn phát triển phôi đến khả năng chịu mặn và hoạt tính các enzyme tiêu hóa của cá tra (<i>Pangasianodon hypophthalmus</i>) giai đoạn cá hương https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/507 <p><em>Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của việc tiếp xúc độ mặn ở giai đoạn phát triển phôi lên khả năng chịu mặn của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở giai đoạn cá hương. Thí nghiệm được thiết kế với 2 nhân tố (độ mặn ấp và ương), gồm 12 nghiệm thức và 4 lần lặp lại. Trứng cá tra sau khi thụ tinh được ấp ở các độ mặn 0‰, 1‰, và 2‰, sau khi nở cá bột được ương ở các độ mặn 0‰, 4‰, 8‰ và 12‰. Sau 35 ngày ương, kết quả cho thấy độ mặn ấp và ương không ảnh hưởng đến tăng trưởng, nhưng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống, khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu (ASTT), và hoạt tính của của các enzyme tiêu hóa (pepsin, trypsin, chymotrypsin và amylase). Độ mặn làm giảm tỷ lệ sống của cá ương, nhưng nhóm cá được ấp ở độ mặn cao 2‰ có xu hướng chịu mặn tốt hơn khi ương ở mức độ mặn 12‰ (p&lt;0,05). ASTT của cá ương tăng khi độ mặn tăng, và nhóm cá được ấp ở độ mặn 2‰ có mức tăng ASTT lớn nhất khi ương ở độ mặn 12‰ (p&lt;0,05). Hoạt tính enzyme tiêu hóa của cá ương có xu hướng tăng khi độ mặn ương tăng. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tiếp xúc sớm với độ mặn sẽ làm tăng khả năng chịu mặn của cá ở giai đoạn cá hương.</em></p> <p><strong>Từ khóa</strong>: Cá tra, áp suất thẩm thấu, khả năng chịu mặn, tỷ lệ sống, enzyme tiêu hóa.</p> Đào Minh Hải*, Nguyễn Thị Kim Hà, Nguyễn Thanh Hiệu, Nguyễn Hồng Quyết Thắng Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/507 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Đánh giá ảnh hưởng của góc nghiêng trục chân vịt đến tốc độ tàu cá vỏ composite thông qua mô hình thực nghiệm https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/514 <p><em>Góc nghiêng trục chân vịt là một trong những thông số quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ của tàu thủy nói chung và tàu cá nói riêng. Nghiên cứu này thực hiện</em> <em>đánh giá ảnh hưởng của góc nghiêng trục chân vịt đến vận tốc của tàu cá vỏ composite thông qua mô hình thực nghiệm. Mẫu tàu cá được lựa chọn để chế tạo mô hình và thử nghiệm là mẫu tàu có kích thước: dài 24m, rộng 6,5m và cao 3,5m. Tàu mô hình được chế tạo theo tỷ lệ 1:12 (nhỏ hơn 12 lần) so với tàu thật. Vật liệu để chế tạo tàu mô hình là vật liệu composite (nhựa polyester và sợi thủy tinh). Tàu mô hình được thiết kế sao cho trục chân vịt có thể điều chỉnh góc nghiêng từ 0<sup>o</sup> đến 15<sup>o</sup>. Mô hình được chạy thử nghiệm để đo vận tốc ứng với các góc nghiêng khác nhau. Kết quả thử nghiệm cho thấy vận tốc tàu thay đổi khá lớn khi góc nghiêng tăng từ 0<sup>o</sup> đến 15<sup>o</sup>. Trong đó, vận tốc đạt giá trị cao nhất (đạt đến 3,05hl/h) khi góc nghiêng trục đạt 6<sup>o</sup> và 7<sup>o</sup>. Khi góc nghiêng tăng từ 9<sup>o</sup> đến 15<sup>o</sup>, vận tốc tàu giảm rất mạnh.</em></p> <p><strong>Từ khóa</strong>: Tàu cá vỏ composite; mô hình tàu; góc nghiêng trục chân vịt; vận tốc.</p> Phạm Thanh Nhựt Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/514 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả tài chính của nghề nuôi nghêu trắng (<i>Meretrix lyrata</i>) tại huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/516 <p><em>Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu về hiện trạng kỹ thuật và hiệu quả kinh tế của nghề nuôi nghêu tại huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu thông qua phương pháp điều tra khảo sát trực tiếp 20 hộ nuôi nghêu. Kết quả cho thấy mô hình nuôi nghêu trên bãi triều tại địa phương này có những đặc điểm kỹ thuật như sau: diện tích nuôi trung bình/hộ 13,93 ± 3,90 ha, cỡ giống thả nuôi 3.825 ± 634 con/kg, lượng giống thả 1,59 ± 0,58 tấn/ha, mật độ thả 422,5 ± 41,2 con/m<sup>2</sup>, thời gian nuôi 17,53 ± 0,84 tháng, cỡ nghêu thu hoạch 62,25 ± 4,57 con/kg, tỷ lệ sống 58,50 ± 6,71% và năng suất nuôi trung bình 10,60 ± 3,77 tấn/ha/vụ. Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi nghêu: giá nghêu thương phẩm 20.750 ± 2,881 nghìn đồng/kg, chi phí sản xuất 120,44 ± 40,24 triệu đồng/ha/vụ, doanh thu 223,72 ± 102,24 triệu đồng/ha/vụ. Lợi nhuận trung bình 103,28 ± 70,83 triệu đồng/ha/vụ và tỷ suất lợi nhuận 83,7 ± 0,34 %. Khảo sát cũng cho thấy người nuôi đã có nhận thức về tác động của các yếu tố môi trường, biến đổi thời tiết khí hậu và những khó khăn đang gặp phải như: môi trường nước và một số vấn đề về kỹ thuật nuôi qua đó kiến nghị một số giải pháp để đảm bảo phát triển bền vững nghề nuôi nghêu tại địa phương.</em></p> <p><strong>Từ khóa:</strong> Bạc Liêu, nuôi nghêu, kỹ thuật, hiệu quả kinh tế</p> Ngô Thị Thu Thảo*, Dương Minh Thùy, Phùng Hữu Tâm, Vũ Trọng Đại Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/516 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Kết quả bước đầu thăm dò khai thác mực lá đại dương (<i>Thysanoteuthis rhombus</i>) ở vùng khơi Miền Trung, Việt Nam https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/519 <p><em>Nghiên cứu thăm dò khai thác mực lá đại dương </em><em>(Thysanoteuthis rhombus)</em><em> ở vùng khơi miền Trung, Việt Nam nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng khai thác làm cơ sở đề xuất công nghệ khai thác </em><em>phù hợp với điều kiện nghề cá Việt Nam </em><em>giúp tăng năng suất khai thác, hiệu quả kinh tế. Nghiên cứu được thực hiện vào </em><em>tháng 9 năm 2023 tại v</em><em>ùng biển có vĩ độ từ 14<sup>0</sup>35’ N đến 17<sup>0</sup>07’ N, kinh độ từ 109<sup>0</sup>34’ E đến 111<sup>0</sup>57’ E. </em><em>Nghiên cứu </em><em>sử dụng mẫu dây câu mực lá đại dương tổ chức 3 chuyến thăm dò và </em><em>thu được 46 con mực lá đại dương. Kết quả nghiên cứu cho thấy, </em><em>tổng sản lượng </em><em>mực lá đại dương thu được là 257,7 kg với năng suất khai thác trung bình đạt 2,78 kg/dây câu. Mực lá đại dương có chiều dài dao động từ </em><em>370 ÷ 710 mm và khối lượng dao động từ 1,5 ÷ 10,4 kg. </em><em>T</em><em>hành phần thức ăn của </em><em>mực lá đại dương thuộc 2 nhóm</em><em>, </em><em>trong đó nhóm cá xương là thức ăn chiếm ưu thế; </em><em>sản lượng khai thác mực lá đại dương cao </em><em>ở </em><em>độ sâu 150 m và 100 m với </em><em>nhiệt độ nước biển dao động từ </em><em>15,5 ÷ 19,5<sup>0</sup>C.</em></p> <p><strong>Từ khóa:</strong> Mực lá đại dương, thăm dò, Việt Nam.</p> Phạm Sỹ Tấn*, Phan Đăng Liêm Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/519 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Ảnh hưởng của một số yếu tố đến chất lượng sản phẩm sau thu hoạch trên tàu nghề lưới vây tại Thành phố Nha Trang, Tỉnh Khánh Hòa https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/521 <p><em>Sản lượng đánh bắt của nghề lưới vây tại thành phố Nha Trang đứng thứ ba, chỉ sau lưới kéo và lưới rê. Sản phẩm của nghề vây chủ yếu là xuất khẩu như cá ngừ, cá cơm.. chất lượng sản phẩm ngày càng được kiểm soát một cách chặt chẽ và theo qui trình nghiêm ngặt. Trong quá trình hoạt động khai thác có một số yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng của sản phẩm cụ thể như sau: thời gian thu lưới, thu cá trong khoảng 2-3h cho 1 mẻ lưới đạt 87,5% là tốt, loại trung bình đạt 12,5%, nếu thời gian thu lưới 3 - &lt;4 giờ hay trên 4h thì chất lượng tốt giảm xuống, loại trung bình thì tăng lên. Đối với thời gian 1 chuyến biển dưới 8 ngày thì chất lượng sản phẩm đạt cao nhất là 95,6% là tốt, 4,3% là trung bình và không có loại kém, nếu thời gian 1 chuyến biển tăng lên thì chất lượng sản phẩm đạt loại tốt giảm dần xuống và loại trung bình, kém lại tăng lên. Đối với hầm PU thì thời gian bảo quản trong hầm &lt;10 ngày đạt chất lượng tốt là 85%, trung bình 14% và kém là 1%, nếu thời gian tăng lên thì loại tốt giảm dần từ 20 – 30%, loại trung bình và kém cũng tăng lên. Đối với hầm xốp thì thời gian bảo quản trong hầm &lt;10 ngày đạt chất lượng tốt là 60%, trung bình 35% và kém là 5%, nếu thời gian tăng lên loại tốt, trung bình và kém đều giảm xuống rất lớn.</em></p> <p><strong>Từ khóa:</strong> Chất lượng sản phẩm, Nha Trang, Khánh Hòa.</p> Trần Đức Phú*, Nguyễn Ngọc Hạnh Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/521 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Đánh giá năng suất sinh học và tốc độ phát triển của thực vật nổi ở vùng cửa sông Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/522 <p><em>Thực vật nổi đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái cử</em><em>a sông, nơi diễn ra động thái dinh dưỡng phức tạp</em><em>. Bài viết này đánh giá năng suất sinh học và tốc độ phát triển của thực vật nổi (phytoplankton) tại vùng cửa sông Bà Rịa - Vũng Tàu, nhằm làm rõ tính đặc thù của hệ sinh thái cửa sông phục vụ quản lý môi trường nước. Nghiên cứu được thực hiện dựa vào kết quả hai chuyến khảo sát và thực nghiệm tại 4 trạm vào tháng 6/2022 (mùa mưa) và tháng 12/2022 (mùa khô). Kết quả nghiên cứu cho thấy năng suất sinh học (GPP) của thực vật nổi dao động từ 387,0-2040,0 mgC m<sup>-3</sup> ngày<sup>-1</sup> vào tháng 6/2022 và 355,5-1254,0 mgC m<sup>-3</sup> ngày<sup>-1</sup> vào tháng 12/2022. Tỷ lệ GPP/CR biến động từ 2,15 đến 16,06, phản ánh tính tự dưỡng của vùng nước. Tốc độ phát triển của thực vật nổi trung bình đạt 0,975 ± 0,743 ngày<sup>-1</sup> vào mùa mưa và 1,459 ± 0,494 ngày<sup>-1</sup> vào tháng 12/2022. Tốc độ phát triển này có mối quan hệ nghịch với hàm lượng chlorophyll-a, và cao hơn vào tháng 12/2022. Tốc độ này giảm dần theo độ sâu có thể do hạn chế ánh sáng ở các độ sâu lớn hơn. Các kết quả cho thấy vùng cửa sông ở Bà Rịa – Vũng Tàu là môi trường giàu dinh dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thực vật nổi. Tuy nhiên, nó cũng tiềm ẩn nguy cơ gây ra hiện tượng tảo nở hoa dưới điều kiện ánh sáng thuận lợi. Hiểu rõ các quá trình động thái học này góp phần quản lý và giám sát hiệu quả môi trường thủy sinh, đồng thời dự báo các hệ quả sinh thái tiềm ẩn của việc tăng cường dinh dưỡng trong khu vực. </em></p> <p> <strong>T</strong><strong>ừ khoá:</strong> Thực vật nổi, tốc độ phát triển, cửa sông, Bà Rịa – Vũng Tàu.</p> Huỳnh Minh Sang*, Nguyễn Minh Hiếu, Phan Minh Thụ Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/522 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Tổng quan về ô nhiễm môi trường do chất dinh dưỡng trong nuôi trồng thủy sản https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/478 <p><em>Ô nhiễm do các thành phần dinh dưỡng thải ra từ ho</em><em>ạt động nuôi trồng thủy sản đưa đến hai tác động tiêu cực chính là làm suy giảm chất lượng nước và biến đổi môi trường đáy. Nước thải từ những cơ sở nuôi thủy sản, đặc biệt là nuôi thâm canh, chứa nhiều thành phần dinh dưỡng và chuyển hóa từ chất dinh dưỡng ở dạng hòa tan (như chất thải hòa tan từ trao đổi chất, chất dinh dưỡng hòa tan từ thức ăn và phân) hoặc chất thải rắn (thức ăn thừa và phân). Đối với cột nước, các chất thải làm gia tăng hàm lượng dinh dưỡng tại vùng nước tiếp nhận gây nên hiện tượng phú dưỡng. Đối với nền đáy, sự lắng tụ các chất thải làm biến đổi sinh cảnh, nhất là tình trạng yếm khí. Đây cũng là nguyên nhân chính gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến khu hệ sinh vật đáy. Cần tiếp cận vấn đề theo cả hai hướng là quy hoạch– quản lý và cải tiến về kỹ thuật nói chung bao gồm cả kỹ thuật nuôi và xử lý nước thải nhằm giảm ảnh hưởng của hoạt động nuôi thủy sản đến môi trường.</em></p> <p><strong>Từ khóa</strong>: Ô nhiễm môi trường, dinh dưỡng hòa tan, nitrogen, phosphorus, chất rắn</p> Trương Thị Bích Hồng*, Nguyễn Văn Quỳnh Bôi, Tôn Nữ Mỹ Nga Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/478 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Tỷ lệ dị hình ở một số loài cá biển trong các trại sản xuất giống tại Khánh Hòa https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/502 <p><em>Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tỷ lệ xuất hiện và đặc điểm của các dạng dị hình ở bốn loài cá biển giai đoạn con giống, bao gồm cá chim vây ngắn (Trachinotus falcatus), cá chim vây dài (Trachinotus blochii), cá chẽm (Lates calcarifer) và cá khế vằn (Gnathanodon speciosus), đang được sản xuất giống nhân tạo tại Khánh Hòa, Việt Nam. Các mẫu cá giống có kích cỡ từ 3 đến 5 cm được thu thập từ các trại sản xuất giống ở Cam Ranh và Nha Trang. Với mỗi loài, mẫu được thu từ 10 đàn cá khác nhau trong năm. Đối với mỗi đàn, ba bể nuôi được lựa chọn ngẫu nhiên để lấy mẫu, với 300 cá thể/bể. Các dạng dị hình và tỷ lệ xuất hiện của chúng được ghi nhận và so sánh giữa các loài. Kết quả cho thấy sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ dị hình chung và từng dạng dị hình giữa các loài nghiên cứu. Cá chim vây ngắn có tỷ lệ dị hình chung cao nhất (10,73%), tiếp theo là cá chẽm (7,28%), trong khi cá chim vây dài và cá khế vằn có tỷ lệ thấp hơn, lần lượt là 3,64% và 2,85%. Trong cùng một loài, dị hình nắp mang xuất hiện với tần suất cao hơn so với các dạng dị hình khác. Các dấu hiệu đặc trưng của từng dạng dị hình, bao gồm đặc điểm hình thái ngoài và hình ảnh nhuộm xương, đã được mô tả chi tiết. Nghiên cứu này cung cấp thông tin quan trọng về tỷ lệ dị hình ở một số loài cá biển tại các trại sản xuất giống cá biển ở Khánh Hòa. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học để các nhà sản xuất và cơ quan quản lý ngành thủy sản đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng con giống cá biển sản xuất tại địa phương.</em></p> <p><strong>Từ khóa</strong>: Cá biển, dị hình, con giống nhân tạo, Khánh Hòa, tỷ lệ dị hình</p> Ngô Văn Mạnh*, Hoàng Thị Thanh, Trần Văn Dũng Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/502 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000 Đánh giá hiệu quả sử dụng năng lượng mô hình nuôi tôm siêu thâm canh tuần hoàn nước khép kín và tái chế năng lượng từ bùn thải https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/513 <p><em>Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá hiện trạng môi trường và hiện trạng tiêu thụ năng lượng của hoạt động nuôi tôm siêu thâm canh. Từ đó đề xuất mô hình sinh thái khép kín cho ao nuôi tôm siêu thâm canh hướng đến tuần hoàn dinh dưỡng và tiết kiệm năng lượng phù hợp với hiện trạng của ao nuôi và các điều kiện tự nhiên sẵn có. Kết quả cho thấy rằng năng suất năng lượng, năng lượng riêng và năng lượng ròng của sản xuất tôm siêu thâm canh truyền thống lần lượt là 0,19 kg/MJ, 5,58 MJ/kg và 1.206.133 MJ/ha. Trong khi đó hiệu quả sử dụng năng lương của mô hình nuôi tôm siêu thâm canh theo hướng sinh thái khép kín cao gấp 2-3 lần so với với mô hình nuôi tôm truyền thống. Cụ thể, hiệu suất sử dụng năng lượnggấp 26,54 lầnđược quan sát trong nghiên cứu này cho thấy năng lượng được tạo ra trên mỗi đơn vị sản phẩm của mô hình sinh thái tích hợp. Năng suất năng lượng, năng lượng riêng và năng lượng ròng của sản xuất tôm siêu thâm canh tích hợp lần lượt là 26,45 kg/MJ, 0,04 MJ/kg và 11.294.813 MJ/ha.</em></p> <p><strong>Từ khóa:</strong> hệ sinh thái khép kín, Đồng bằng sông Cửu long, tuần hoàn dinh dưỡng, xử lý chất thải, phát triển năng lượng xanh. Đồng bằng sông Cửu long, hệ sinh thái khép kín, phát triển năng lượng xanh, tuần hoàn dinh dưỡng, xử lý chất thải.</p> Tiền Hải Lý*, Nguyễn Thị Kiều, Phạm Sỹ Nguyên, Trần Trung Kiên Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang https://jfst.vn/index.php/ntu/article/view/513 Fri, 27 Dec 2024 00:00:00 +0000