##plugins.themes.huaf_theme.article.main##
Tóm tắt
Nghiên cứu được tiến hành gồm 4 nghiệm thức tương ứng với 4 tỷ lệ nước thải khác nhau từ sản xuất tôm giống: 100% nước thải; 25% nước thải và 75% nước sạch; 50% nước thải và 50% nước sạch; 100% nước sạch. Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng của lượng nước thải sử dụng đến tỷ lệ sống, sinh trưởng và một số chỉ tiêu sinh sản của Artemia. Từ đó, đánh giá khả năng nuôi sinh khối Artemia bằng nguồn nước thải từ sản xuất tôm giống. Kết quả cho thấy tỷ lệ nước thải ảnh hưởng rõ ràng tới tỷ lệ sống, chiều dài toàn thân, sức sinh sản của Artemia. Sau 14 ngày nuôi, tỷ lệ sống, chiều dài toàn thân, sức sinh sản khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức(P<0,05). Tỷ lệ sống, sức sinh sản và chiều dài toàn thân cao nhất lần lượt là 45,7 ± 5,36%, 62,2 ± 19,77 trứng/con cái, 8,1 ± 0,22 mm ở nghiệm thức 50% nước thải và 50% nước sạch. Tỷ lệ sống thấp nhất (24,9 ± 2,81%) ở nghiệm thức 100% nước thải. Sức sinh sản thấp nhất 40,4 ± 17,44 trứng/con cái ở nghiệm thức 75% nước sạch và 25% nước thải. Chiều dài toàn thân thấp nhất 6,9 ± 0,48 mm ở nghiệm thức 100% nước sạch. Tuy nhiên, tỷ lệ nước thải ảnh hưởng không lớn tới tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ con cái mang trứng nghỉ của Artemia. Sau 14 ngày nuôi, tốc độ sinh trưởng dao động từ 0,03 đến 0,04%/ngày, tỷ lệ con cái có trứng nghỉ với con cái không có trứng dao động từ 56,7% đến 76,7%, cả hai thông số này đều khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Nhìn chung, Artemia có thể sinh trưởng và sinh sản tốt khi nuôi trong nước thải từ sản xuất tôm giống. Trong phạm vi nghiên cứu, phối hợp 50% nước thải và 50% nước sạch để nuôi Artemia là phù hợp nhất.
Từ khóa: Artemia, nước thải, tôm giống