##plugins.themes.huaf_theme.article.main##
Tóm tắt
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của tần suất cho ăn đến tăng trưởng, hệ số thức ăn (FCR), hiệu quả chuyển đổi protein (PER) và tỷ lệ sống ở cá hồng đỏ giai đoạn giống. Cá hồng đỏ (khối lượng 0,18 ± 0,01 g; chiều dài 1,93 ± 0,10 cm) được nuôi trong bể composite hình trụ tròn (Ø=0,8 m) thể tích 500 L, với mật độ 0,75 con/L. Cá được cho ăn thỏa mãn nhu cầu với 4 nghiệm thức về tần suất cho ăn là 2, 3, 5 và 7 lần/ngày (tương ứng với F2, F3, F5, F7) bằng thức ăn có hàm lượng protein 55,0%, lipid 9,0% (NRD, INVE, Thái Lan), trong thời gian 35 ngày. Mỗi nghiệm thức được thực hiện với 4 lần lặp. Kết quả cho thấy tần suất cho ăn ảnh hưởng đến tăng trưởng, hệ số FCR, hệ số PER và tỷ lệ sống ở cá hồng đỏ. Cá hồng đỏ ở nghiệm thức F3 và F5 đạt kết quả tăng trưởng chiều dài và khối lượng cao hơn so với hai nghiệm thức F2 và F7, trong đó nghiệm thức F2 cá đạt kết quả sinh trưởng thấp nhất (P<0,05). Không có sự sai khác thống kê về hệ số phân đàn chiều dài và khối lượng, chỉ số điều kiện cơ thể (K), hệ số nội tạng (VSI) và hệ số gan (HSI) giữa các nghiệm thức thí nghiệm (P>0,05). Trong khi đó, hệ số thức ăn (FCR) ở nghiệm thức F7 cao hơn so với các nghiệm thức còn lại (P < 0,05). Ngược lại, hiệu quả chuyển đổi protein ở cá hồng đỏ cho ăn 7 lần/ngày (F7) thấp nhất. Tỷ lệ sống của cá ở nghiệm thức F5 cao hơn so với nghiệm thức F2 và F7 (P<0,05), trong khi tỷ lệ sống ở nghiệm thức F3 không sai khác về mặt thống kê so với tất cả các nghiệm thức còn lại. Từ các kết quả trên cho thấy tần suất cho ăn từ 3-5 lần/ngày là phù hợp, nhằm đạt kết quả tốt về tăng trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả chuyển đổi thức ăn ở cá hồng đỏ giai đoạn giống.
Từ khóa: Cá hồng đỏ, tần suất cho ăn, sinh trưởng, tỷ lệ sống, hệ số thức ăn.
ABSTRACT
The study aimed to determine the effects of feeding frequency on growth, feed conversion ratio (FCR), protein conversion ratio (PER) and survival rate of juvenile malabar snapper. Malabar snapper (initial weight of 0.18 ± 0.01 g; initial length 1.93 ± 0.10 cm) were reared in 500 liter-cylindrical composite tanks (Ø=0.8 m) at the density of 0.75 fish per liter. The fish were fed to satiation with 4 feeding frequencies, including 2, 3, 5 and 7 times per day (corresponding to F2, F3, F5, F7) using a commercial diet containing 55.0% protein, 9.0% lipid (NRD, INVE, Thailand) for 35 days. Each treatment was run with 4 replication tanks. The results showed that feeding frequency affected growth, FCR, PER and survival rate in juvenile malabar snapper. The fish in treatments F3 and F5 gained higher growth in length and weight than those from treatments F2 and F7, of which the fish in treatment F2 showed the lowest growth rate (P<0.05). There was no significant difference in coefficient of variance of length and weight, condition factor (K), viscerosomatic index (VSI) and hepatosomatic index (HSI) amongs the fish from different feeding frequencies(P>0.05). Meanwhile, FCR of the fish in F7 was higher than those from other treatments (P<0.05). Survival rate (SR) of the fish in F5 was higher than those in the F2 and F7 (P<0.05), while SR of the fish in F3 treatment did not significantly differ from other treatments. The above results indicated that feeding frequency of 3-5 times per day is suitable for growth, survival rate and feed conversion efficiency of juvenile malabar snapper.
Key words: Lutjanus malabaricus, malabar snapper, feeding frequency, growth performance, survival rate.