##plugins.themes.huaf_theme.article.main##
Tóm tắt
Hai thí nghiệm được bố trí liên tiếp nhau, khi kết thúc thí nghiệm 1 thì bố trí tiếp thí nghiệm 2, với mỗi thí nghiệm kéo dài 60 ngày, đã được tiến hành dưới dạng các thiết kế ngẫu nhiên hoàn toàn trong các bể thủy tinh sợi đặt trong phòng. Trong thí nghiệm 1, bốn nghiệm thức đạm thức ăn gồm 35% (NT1.1), 40% (NT1.2), 45% (NT1.3) và 50% (NT1.4). Trong thí nghiệm 2, bốn mức mật độ ương gồm 1 (NT2.1), 1,5 (NT2.2), 2 (NT2.3) và 2,5 (NT2.4) con/lít. Kết thúc thí nghiệm 1, sinh trưởng cao nhất ở NT1.4 (5,77 ± 0,32 g/con), khác biệt thống kê (P<0,05) với NT1.1 (4,36 ± 0,90 g/con). Tỷ lệ sống cao nhất ở NT1.3 (50,05 ± 0,83%) và NT1.4 (52,15 ± 2,55%) khác biệt thống kê với NT1.2 (39,23 ± 0,97%) và NT1.1 (39,18 ± 1,72%) (P<0,05). Sinh trưởng và tỷ lệ sống thấp nhất ở NT1.1. Ở thí nghiệm 2, sinh trưởng cao nhất ở NT2.3 (5,66 ± 0,34 g/con) và NT2.4 (5,84 ± 0,08 g/con), có khác biệt (P<0,05) với NT2.1 (4,44 ± 0,29 g/con) thấp nhất. Tỷ lệ sống cao nhất NT2.1 (49,2 ± 2,29%) và thấp nhất NT2.4 (23,8 ± 0,40%) và giữa bốn nghiệm thức có sự khác biệt thống kê (P<0,05). Từ kết quả cho thấy thức ăn chế biến có hàm lượng đạm 45 - 50% và mật độ ương 1,5 – 2 con/lít là phù hợp để ương cá trèn bầu ở giai đoạn 31 – 90 ngày tuổi trong bể thủy tinh sợi.
Từ khóa: mật độ ương, Ompokbimaculatus, protein thức ăn, thức ăn chế biến, trèn bầu.